HỒI ỨC CỦA NGƯỜI LÍNH GIÀ
HẢI QUÂN TRONG TRẬN HC HOÀNG SA
Ngô Thế Long
Trời
Cam Ranh bây giờ mùa đông, mây trời xám thật buồn và thời tiết th́
thật lạnh. Tôi ngồi đây, trong khu vườn nhỏ nh́n ra bầu trời mênh
mông ḷng không nguôi nghĩ đến những kỉ niệm của ngày xưa, một ngày
cuối đông năm Quư Sửu cùng đồng đội chiến đấu trong trận HC HOÀNG
SA. Vậy mà đến nay đă được 40 năm. 40 năm dài, ḷng tôi đau đáu khi
nghĩ về những đồng đội anh dũng, hào hung đă chiến đấu v́ Tổ Quốc
Việt Nam thân yêu – những người lính VNCH hết ḷng v́ Tổ quốc đánh
giặc ngoại xâm.
Tôi c̣n
nhớ, ngày ấy tôi là SQNV kiêm CTCT trên khu trục hạm Trần Khánh Dư-
HQ-4. Đây được xem là chiến hạm hiện đại nhất của HQ/ VNCH bấy giờ.
Khoảng trung tuần tháng Giêng-1974, chiến hạm tôi nhận lệnh đi tuần
dương miền Trung. Khi tàu chúng tôi tiếp cận khu vực Hoàng Sa cùng
HQ-10, HQ16,HQ5 th́ biết rằng chiến sự sắp xảy ra với TC. Súng đă
lên ṇng, chỉ chờ giờ khai hỏa.
Tôi vẫn
c̣n nhớ không khí chiến sự vô cùng căng thẳng. Tuy nhiên phía VNCH
cố giữ ḥa khí, cố tránh xa va chạm. Song tàu của HQ TC th́ luôn
khiêu khích. Chúng tôi dùng ngôn ngữ Hoa, Anh cũng như quang hiệu,
ḱ hiệu để báo cho phía Trung Quốc biết rằng đây là lănh thổ của
Việt Nam chúng tôi, không được xâm phạm, nhưng phía Trung Quốc với
hành động hiếu chiến, hung hăn, đă chẳng những không lùi mà c̣n lấn
tới.
Tôi c̣n
nhớ rất rơ, đêm đó, sau bữa cơm chiều vội vă, Trung Tá HT. Vũ Hữu
San tập trung toàn bộ thủy thủ đoàn trên tàu lại và bằng giọng nói
mạnh mẽ, cương quyết. Ông nói:” Đây là cuộc chiến mà chúng ta không
chờ đợi, nhưng với sự hiếu chiến của quân thù, chúng ta phải cầm
sung để bảo vệ hải đảo của quốc gia. Như các bạn đă biết, đất nước
ta bao đời nay đă bị giặc Tàu ức hiếp, xâm lân bờ cơi nhưng dân ta
đă một ḷng đoàn kết chiến đấu chống kẻ thù xâm lược. Đời nhà Trần
vào thế kỷ XIII, người Việt Nam ta cũng đă phá tan giặc Nguyên bằng
thủy quân và hôm nay, chúng ta sẽ đánh giặc TC lần đầu tiên bằng tàu
sắt. Trong trận chiến hôm nay có thể tôi, các anh có thể ngă xuống
nhưng quyết chúng ta không chịu lùi bước, chúng ta hăy cùng nhau một
ḷng đánh giặc”.
Đứng
trước hàng quân bằng hào khí oai hung của một người tướng cầm quân
ra trận, xem cái chết tựa lông hồng, Trung tá HT Vũ Hữu San dơng dạc
đọc lên bài thơ Thuật Hoài của Phạm Ngũ Lăo- một danh tướng đời Trần-
1 trều đại oai dùng đă 3 lần đánh giặc xâm lược Nguyên-Mông.
“ Múa
giáo non sông trải mấy thu
Ba quân
hùng khí át sao Ngưu
Công
danh nam tử c̣n vương nợ
Luống
thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”.
Bài thơ
được đọc lên với niềm cảm xúc dâng tràn, cho đến bây giờ, tôi vẫn
c̣n h́nh dung được hào khí ấy vẫn c̣n sôi sục trong huyết quản của
tôi.
Suốt
đêm 18/1/1974, tôi được HT chỉ thị cho mở phóng thanh lien tục với
các bài hùng ca :” Tiếng sóng Vân Đồn” và “ Bạch Đằng giang”. Lời
bài hát nay vẫn c̣n vang vọng trong tôi:”… Đây Bạch Đằng giang song
hùng dũng của ṇi giống Tiên Rồng, giống oai hùng Nam-Bắc-Trung…”
Tiếng
hát đă làm dậy sóng những tâm hồn trẻ của những chàng trai Việt
chúng tôi, làm chí khí chiến đấu trong chúng tôi càng thêm sôi sục.
Bởi v́ chúng tôi biết rằng trận đánh này mang một ư nghĩa cao cả, đó
là chống kẻ thù xâm lược.
Hôm nay
ngồi ôn lại quá khứ với hoài niệm chưa chan- 40 năm đă trôi qua;
đồng đội tôi ngày ấy kẻ c̣n người mất, phiêt bạt bốn phương trời.
Ḷng tôi luôn có một nỗi cảm hoài tiếc thương cho 74 đồng đội chiến
sĩ HQ Quân đội VNCH đă hy sinh để bào vệ Tổ quốc, các anh đă vĩnh
viễn nằm lại trong ḷng biển cả mênh mông.
Cá nhân
tôi bây giờ đă bước vào tuổi “ xưa nay hiếm”. Cái tuổi mà Khổng Tử
nói “ Sở dục bất du củ” ( ư muốn không ra ngoài khuôn phép) nhưng
vẫn muốn rằng: trận chiến Hoàng Sa chống Trung Quốc năm xưa hăy được
đưa vào lịch sử- hăy vinh danh những người lính đă bỏ ḿnh để bảo vệ
Tổ quốc, để lịch sử vẻ vang ngàn đời chống giặc ngoại xâm của dân
tộc Việt.
Sắp đến
ngày kỷ niệm trận HC Hoàng Sa, báo chí trong vào ngoài nước nhắc nhở
nhiều đến sự kiện vẻ vang này làm tôi lại nhớ đến ngày xưa.
-
Ngày xưa của một thời tuổi trẻ vàng son. Tôi lại nhớ đến các
anh. Các anh ơi-xin hăy yên nghĩ, toàn dân Việt Nam ngàn đời nhớ
thương các anh.
NGÔ THẾ LONG
Khu trục hạm Trần Khánh Dư- HQ-4
Mời nghe lời phát biểu của ông Ngô Thế
Long, Cựu Sĩ-Quan Khu Trục Hạm Trần Khánh Dư HQ-4
18.01.2014
- BBC Vietnamese - (Audio) 'Nỗi đau nhiều hơn sự kiêu hănh'
https://www.youtube.com/watch?v=RbxhSPg2MQU
40 năm hải chiến Hoàng
Sa: Nghe 'Thuật hoài' trước khi xung trận
-
Thứ sáu, 2014-01-17 13:19:01 -
Nguồn: ThanhNien.com.vn
-
Trong tâm trí của
ông Ngô Thế Long, một trong những sĩ quan trực tiếp tham gia Hải
chiến Hoàng Sa tháng 1.1974, giọng đọc thơ sang sảng của Hạm trưởng
tàu HQ-4, trung tá Vũ Hữu San, trước khi xung trận, khiến ông Long
không thể nào quên...
Ông Ngô Thế Long tṛ chuyện
với phóng viên Thanh Niên Online - Ảnh: Nguyễn
Chung |
-
Ông Long nhớ lại: “Tôi là sĩ quan nhân viên trên Khu trục hạm
Trần Khánh Dư HQ-4. Đây được xem là chiến hạm hiện đại nhất của Hải
quân Việt Nam Cộng ḥa lúc bấy giờ. HQ-4 có giàn ra đa không thám,
hải thám, chuyên đi tuần dương khắp vùng lănh hải từ vĩ tuyến 17 trở
vào. Khoảng trung tuần tháng 1.1974, chúng tôi nhận lệnh đi tuần
dương khu vực miền Trung chứ cũng không biết là sẽ tham gia bảo vệ
Hoàng Sa và phải đương đầu với Hải quân Trung Quốc. Cho đến khi tàu
chúng tôi tiếp cận khu vực Hoàng Sa cùng với tàu HQ-10, HQ-16, HQ-5
th́ mới biết là sắp có chiến sự. Không khí bấy giờ khá nặng nề, bên
nào đạn cũng lên ṇng, chỉ chờ lệnh trên là khai hỏa”.
Ông Ngô Thế Long, 70 tuổi, sinh ra tại
huyện Phù Mỹ, tỉnh B́nh Định, trong một gia đ́nh viên chức nghèo.
Cha ông là nhân viên hỏa xa từ thời Ngô Đ́nh Diệm. Đang là sinh viên
Trường đại học Y khoa Sài G̣n, Ngô Thế Long phải tạm gác bút để vào
quân đội Việt Nam Cộng ḥa sau đợt tổng động binh năm 1968. Ông Long
hiện sinh sống tại thôn Trung Hiệp, xă Cam Hiệp Bắc, huyện Cam Lâm,
tỉnh Khánh Ḥa.
Ông Long kể rằng, từ chiều 18.1.1974,
trong “ḷng chảo” của Hoàng Sa, tàu hải quân của Trung Quốc và tàu
hải quân Việt Nam Cộng Ḥa đă “so kè” nhau. Tàu Trung Quốc liên tục
cản mũi tàu Việt Nam Cộng Ḥa, c̣n tàu của Việt Nam Cộng Ḥa th́ cố
tránh “va chạm” và chờ lệnh. Theo ông Long, các chiến hạm của Việt
Nam Cộng Ḥa chủ trương “ôn ḥa” trong khi tàu Trung Quốc th́ luôn
khiêu khích.
-
“Chúng tôi dùng loa, đèn tín hiệu, để gửi cho phía Trung Quốc
thông điệp rằng đây là phần lănh hải của Việt Nam Cộng Ḥa. Thấy
không có dấu hiệu ǵ để họ “lùi”, một số sĩ quan trên tàu chúng tôi,
nhất là số anh em ở khu vực Chợ Lớn có biết tiếng Hoa đă dùng loa để
nói với họ bằng tiếng Hoa rằng, các ông không được xâm phạm lănh hải
của chúng tôi, yêu cầu các ông rút khỏi khu vực này. Tuy nhiên, phía
Trung Quốc không những không “lùi” như yêu cầu của chúng tôi mà họ
c̣n lấn tới. Một cuộc hải chiến không thể tránh khỏi sắp xảy ra và
chúng tôi đă chấp nhận nó như mọi người đă biết”, ông Long nhớ lại.
-
Ông Long kể: Đêm đó, trung tá Vũ Hữu San, sau bữa cơm chiều
vội vàng, ông tập họp tất cả anh em binh sĩ trên tàu lại và nói rằng,
đây là trận hải chiến mà chúng ta không chờ đợi nhưng buộc phải cầm
súng để bảo vệ lănh hải quốc gia. Ông San nói: “Như các bạn đă biết,
ông cha ta từ bao đời nay bị giặc phương Bắc ức hiếp nhưng luôn luôn
biết cách đứng lên để bảo vệ bờ cơi thiêng liêng của ḿnh. Sau trận
thủy chiến của quân và dân nhà Trần thế kỷ 13 th́ đây là lần đầu
tiên người Việt Nam chúng ta đánh giặc phương Bắc bằng thủy quân
nhưng bằng tàu sắt. Trận chiến này, các bạn, kể cả tôi có thể ngă
xuống nhưng chúng ta không được lùi bước, như cha ông ta đă từng
đánh giặc để bảo vệ bờ cơi”. Như để khích lệ tinh thần quân sĩ một
lần nữa, trung tá Vũ Hữu San đă đọc bài thơ Thuật hoài của
Phạm Ngũ Lăo, một danh tướng nhà Trần, triều đại đă 3 lần đánh tan
quân xâm lược Nguyên-Mông:
-
“Múa giáo non sông trải
mấy thu Ba quân hùng khí át sao Ngưu Công danh nam tử c̣n vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”
-
“Tất cả anh em sĩ quan và binh lính trên tàu, sau khi được
“lên dây cót” như thế, ai cũng hồi hộp chờ khai hỏa. Chúng tôi, kẻ
mặc áo lính 10 năm, người mới nhập ngũ, từng kinh qua trận mạc nhưng
có lẽ đây là lần đầu tiên trong đời binh nghiệp, trận đánh này mang
một ư nghĩa hoàn toàn khác: chống kẻ thù ngoại bang đang xâm lăng bờ
cơi nước ta, nó hoàn toàn khác với những lần nổ súng trước đó. Đấy
thật sự là một cuộc chiến bảo vệ Tổ quốc đúng nghĩa nhất của từ này.
Và trận hải chiến không mong đợi ấy đă mang lại cho chúng tôi một
kết cục buồn; 74 đồng đội chúng tôi đă ngă xuống nhưng đă không bảo
vệ được phần lănh hải thiêng liêng của Tổ quốc”, ông Long ngậm ngùi.
-
“Nhưng điều tôi muốn nói là, dù chúng tôi đă thất bại, dù
danh xưng trong trận hải chiến ấy chưa được lịch sử hôm nay công
nhận chính danh, nhưng máu đă đổ xuống Hoàng Sa ngày ấy là máu của
người Việt Nam chống quân Trung Quốc xâm lược như ông cha ta đă từng
đổ xuống từ hàng ngàn năm qua để bảo vệ bờ cơi”, ông Long nói.
Trần Đăng
Phân tích bài thơ thuật hoài!
Âm vang của thời đại Đông A với những
chiến công lẫy lừng trong lịch sử chống ngoại xâm, ba lần đánh bại
Nguyên - Mông đă in dấu trên nhiều trang viết của các nhà thơ đương
thời. Phạm Ngũ Lăo - danh tướng nhà Trần "đánh đâu thắng đó" cũng
ghi lại những xúc cảm của ḿnh qua Thuật Hoài - tác phẩm thể hiện
rất đẹp h́nh ảnh và khí thế của người trai thời đại, cũng là tư thế
của dân tộc trong những ngày hào hùng ấy.
Hoành sóc giang sơn cáp kỷ
thu
Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu
Nhà thơ, người đan sọt: anh hùng Phạm Ngũ Lăo
Bài thơ chữ Hán , vẻn vẹn 28 chữ đă có một dung lượng thông điệp
thẩm mỹ lớn, thể hiện khí phách nhà thơ - dũng tướng. Thi ngôn chí
là nội dung tư tưởng của đề tào Thuật hoài, Vịnh hoài, cảm hoài...
Nhưng sẽ không thể có cái ung dung hào sảng nếu tách bài thơ ra khỏi
không khí thời đại bừng bừng "sát Thát". . Bài thơ không tách rời
khỏi quỹ đạo tư tưởng Nho giáo trong mẫu h́nh người anh hùng cá nhân
phong kiến nhưng trước hết nó là nỗi ḷng của người "một thời tuy đă
nên tướng giỏi - chí khí anh hùng vẫn khát khao". Giấc mộng lập công
dương danh luôn là điều ám ảnh những kẻ sĩ, đại trượng phu thời
phong kiến, đi liền với các tước phong công, hầu, khanh, tướng.
Nhưng trong bài thơ này, con người đă được phác bằng những câu thơ
có sức khái quát cao độ tinh thần dân tộc tự cường.
Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu
Câu khai đề của bài thơ đă tạo một tư thế rất đẹp của con người. Bản
dịch vung giáo, múa giáo đều không ổn v́ lập tức nó sẽ phá vỡ đi đối
trọng con người - không gian. Một bên là giang sơn - sông núi quê
hương rộng lớn; một bên là con người hoành sóc - cầm ngang ngọn giáo
trấn giữ non sông. Thế "hoành" của ngọn giáo khiến tầm vóc con người
như vươn lên ngang tầm sông núi. H́nh ảnh người lính vệ quốc toát
lên vẻ b́nh thản hiên ngang. Không những thế, trong mối tương quan
con người - thời gian c̣n làm nổi bật ấn tượng về sự bền bỉ , uy
dũng của người trai thời đại. Bởi lẽ con người không chỉ đứng đó
trong thoáng chốc mà đă trải qua "mấy thu" rồi. Câu thơ xác lập một
tư thế con người lồng lộng giữa đất trời, ngang tầm vũ trụ. Không
những thế, cả đoàn quân cùng chung tư thế ấy :
Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu
Câu trên là h́nh ảnh, câu dưới là thần thái con người. Người chiến
sĩ cầm ngang ngọn giáo kia với tam quân đă tạo thành một tường thành
vững chắc, im phăng phắc mà khí thế "xung thiên". Câu thơ c̣n gợi về
một ư thơ của Quảng Nghiêm thiền sư : "Nam nhi tự hữu xung thiên chí".
Tư thế sẵn sàng xung trận đă h́nh thành tứ thơ thật đẹp "tỳ hổ khí
thôn ngưu". Tuy rằng cách diễn ư chưa thoát khỏi lối ước lệ tượng
trưng quen thuộc của thơ xưa nhưng để hiểu cặn kẽ cũng không phải là
điều đơn giản. Theo cảm quan thẩm mỹ cổ điển, câu thơ gợi lên khí
phách đoàn quân quyết chiến làm át cả sao Ngưu - v́ tinh tú sáng
chói trên trời. Nhưng cách hiểu "ba quân như hổ mạnh nuốt trôi trâu"
đem đến cảm nhận cụ thể hơn về sức mạnh của quân đội c̣n non trẻ
đương đầu với đội quân Nguyên - Mông hùng mạnh và thiện chiến, dường
như có hàm ư ngợi ca tự hào mạnh mẽ hơn. Bởi lẽ tỳ hổ là cách so
sánh mang đậm chất vơ của người thống lĩnh ba quân. Trong sự liên
tưởng ấy, hổ và trâu hoàn toàn không làm mất đi giá trị thẩm mỹ của
câu thơ mà làm rơ hơn cho dũng khí của quân đội nhà Trần.
Nhưng hai câu thơ đầu mới chỉ là nền để
nhà thơ bộc bạch ḷng ḿnh :
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu
Đây mới là điều canh cánh bên ḷng của
người dũng tướng, gắn với bổn phận của kẻ làm trai thời phong kiến .
Bao đời nay, nợ công danh từng là niềm ám ảnh khôn nguôi với những
người làm trai trong thời phong kiến. Phải chăng, một người anh hùng
như Phạm Ngũ Lăo cũng không thoát ra khỏi cái ṿng luẩn quẩn "công
hầu khanh tướng" ấy? Giả sử có như vậy cũng là lẽ thường t́nh, nhất
là trong thời đại giá trị con người được tạo nên từ những chiến công
- thời thế tạo anh hùng. Câu thơ bộc lộ niềm khao khát lớn, một điều
băn khoăn chưa trả với đời của người trai làng Phù Ủng năm nào. Tất
cả nỗi niềm của ông được thổ lộ trong sự đối sánh với tấm gương Vũ
Hầu Gia Cát Lượng thuở xưa. Bậc mưu thần, danh sĩ nổi tiếng thời Tam
Quốc, người đă xả thân v́ cơ nghiệp nhà Thục, v́ chúa Lưu Bị, nhắm
mắt chưa yên công cuộc "ủng Lưu phản Tào". Tất cả đă rơ, tâm niệm
của Phạm Ngũ Lăo nào khác nguời xưa khi ông mong muốn làm nên công
nghiệp pḥ tá cho vua, thực hiện lư tưởng trí quân trạch dân cao cả
của bề tôi trung thành tận tuỵ. Nỗi thẹn của người anh hùng toả sáng
một nhân cách lớn. Băn khoăn ấy không dành riêng cho bản thân mà
toàn tâm toàn ư hướng về nghiệp lớn muôn đời, v́ sự b́nh yên của sơn
hà xă tắc.
Bài thơ là sự phản chiếu một thời đại hào hùng, khi lư
tưởng trung quân ái quốc hoà nhịp trọn vẹn trong t́nh cảm, tâm hồn
nhà thơ, thời đại "vua tôi đồng ḷng, anh em hoà thuận, cả nước ra
sức".Tâm nguyện của Phạm tướng quân đă phản chiếu tâm tư của bao
người trai thời Trần : ư thức rơ giá trị bản thân, nhận rơ sự gắn bó
cá nhân với cộng đồng - dân tộc - đất nước. Xúc cảm hào hùng toả
sáng trong h́nh tượng thơ, đem đến cho người đọc cái nh́n trọn vẹn
về con người thời đại Đông A.
Phạm Ngũ Lăo (1255-1320) là
một danh tướng đời Trần, trăm trận trăm thắng, văn vơ toàn tài. Tác
phẩm của ông chỉ c̣n lại hai bài thơ chữ Hán: “Thuật hoài” và “Văn
Thượng tướng Quốc công Hưng Đạo Đại vương”.
Bài thơ “Thuật hoài” thể hiện niềm tự hào về chí nam nhi
và khát vọng chiến công của người anh hùng khi Tổ quốc bị xâm lăng.
Nó là bức chân dung tự hoạ của danh tướng Phạm Ngũ Lăo.
Cầm ngang ngọn giáo (hoành sóc) là một tư thế chiến đấu
vô cùng hiên ngang dũng mănh. Câu thơ “Hoàng sóc giang sơn cáp kỷ
thụ” là một câu thơ có h́nh tượng kỳ vĩ, tráng lệ, vừa mang tầm vóc
không gian (giang sơn) vừa mang kích thước thời gian chiều dài lịch
sử (cáp kỷ thu). Nó thể hiện tư thế người chiến sĩ thuở “b́nh Nguyên”
ra trận hiên ngang, hào hùng như các dũng sĩ trong huyền thoại. Chủ
nghĩa yêu nước được biểu hiện qua một vần thơ cổ kính trang nghiêm:
cắp ngang ngọn giáo, xông pha trận mạc suốt mấy mùa thu để bảo vệ
giang sơn yêu quư.
Đội quân “Sát Thái” ra trận vô cùng đông đảo, trùng điệp
(ba quân) với sức mạnh phi thường, mạnh như hổ báo (tỳ hổ) quyết
đánh tan mọi kẻ thù xâm lược. Khí thế của đội quân “phụ tử chi binh”
ấy ào ào ra trận. Không một thế lực nào, kẻ thù nào có thể ngăn cản
nổi. “Khí thôn Ngưu” nghĩa là khí thế, tráng chí nuốt sao Ngưu, làm
át, làm lu mờ sao Ngưu trên bầu trời. Biện pháp tu từ thậm xưng sáng
tạo nên một h́nh tượng thơ mang tầm vóc hoành tráng, vũ trụ: “Tam
quân t́ hổ khí thôn Ngưu”. H́nh ảnh ẩn dụ so sánh: “Tam quân t́ hổ…”
trong thơ Phạm Ngũ Lăo rất độc đáo, không chỉ có sức biểu hiện sâu
sắc sức mạnh vô địch của đội quân “Sát Thát” đánh đâu thắng đấy mà
nó c̣n khơi nguồn cảm hứng thơ ca; tồn tại như một điển tích, một
thi liệu sáng giá trong nền văn học dân tộc:
“Thuyền bè muôn đội;
Tinh kỳ phấp phới
Tỳ hổ ba quân, giáo gươm sáng chói…” (Bạch Đằng giang
phú)
“Giang sơn hoàng sóc, khí thôn Ngưu”
“Vịnh Phạm Ngũ Lăo” - Đặng Minh Khiêm (1456-1522)
“Nghĩa binh tráng khí thôn Ngưu Đẩu.” (“Đăng Sơn”- thành
Hồ)
Người chiến sĩ “b́nh Nguyên” mang theo
một ước mơ cháy bỏng: khao khát lập chiến công để đền ơn vua, báo nợ
nước. Thời đại anh hùng mới có khát vọng anh hùng! “Phá cường địch,
báo hoàng ân” (Trần Quốc Toản) – “Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin
bệ hạ đừng lo” (Trần Thủ Độ). “…Dẫu cho trăm thân này phơi ngại nội
cỏ, ngh́n xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam ḷng” (Trần Quốc
Tuấn)… Khát vọng ấy là biểu hiện rực rỡ những tấm ḷng trung quân ái
quốc của tướng sĩ, khi tầng lớp quư tộc đời Trần trong xu thế đi lên
đang gánh vác sứ mệnh lịch sử trọng đại. Họ mơ ước và tự hào về
những chiến tích hiển hách, về những vơ công oanh liệt của ḿnh có
thể sánh ngang tầm sự nghiệp anh hung của Vũ Hầu Gia Cát Lượng thời
Tam Quốc. Hai câu cuối sử dụng một điển tích (Vũ Hầu) để nói về nợ
công danh của nam nhi thời loạn lạc, giặc giă:
“Công danh nam tử c̣n vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”
“công danh” mà Phạm Ngũ Lăo nói đến
trong bài thơ là thứ công danh được làm nên bằng máu và tài thao
lược, bằng tinh thần quả cảm và chiến công. Đó không phải là thứ
“công danh” tầm thường, đậm màu sắc anh hùng cá nhân. Nợ công danh
như một gánh nặng mà kẻ làm trai nguyện trả, nguyện đền bằng xương
máu và ḷng dũng cảm. Không chỉ “Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”,
mà tướng sĩ c̣n học tập binh thư, rèn luyện cung tên chiến mă, sẵn
sàng chiến đấu “Khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà
đều là Hậu Nghệ có thể bên được đầu Hốt Tất Liệt ở cửa Khuyết, làm
rữa thị Vân Nam Vương ở Cảo Nhai,…” để Tổ quốc Đại Việt được trường
tồn bền vững: “Non sông ngh́n thuở vững âu vàng” (Trần Nhân Tông).
“Thuật hoài” được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt.
Giọng thơ hùng tráng, mạnh mẽ. Ngôn ngữ thơ hàm súc, h́nh tượng kỳ
vĩ, tráng lệ, giọng thơ hào hùng, trang nghiêm, mang phong vị anh
hùng ca. Nó măi măi là khúc tráng ca của các anh hùng tướng sĩ đời
Trần, sáng ngời “hào khí Đông-A”.
em ko hieu lam ve bai tho thuat hoai lam
on giup em voi cho em them va gian y va nhung de van co the ra
Thêm bài nữa để củng
tham khảo:
I. Mở bài :
- Nhắc đến Phạm Ngũ Lăo,chúng ta liền nhớ đến người anh hùng
xuất thân ở tầng lớp b́nh dân,ngồi đa sọt mà lo việc nước.Về
sau,chàng trai làng Phù Ủng ấy đă trở thành nhân vật lịch sử từng có
công lớn trong kháng chiến chống quân Nguyên-Mông,giữ địa vị cao ở
đời Trần.
- Phạm Ngũ Lăo là người văn vơ song toàn.Văn thơ của ông để lại
không nhiều,nhưng Thuật hoài là bài thơ nổi tiếng hừng hực hào khí
Đông A của lịch sử giai đoạn thế kỷ X đến XV.
II. Thân bài :
2.1. Hoàn cảnh sáng tác :
Theo Đại Việt sử kư toàn thư, năm 1282 quân Nguyên đ̣i mượn đường
đánh Chiêm Thành,nhưng thực ra định xâm lược nước ta.Trước t́nh h́nh
ấy,vua Trần mở hội nghị B́nh Than bàn kế hoạch đánh giặc.Sau đó,Phạm
Ngũ Lăo và một số vị tướng được cử lên biên ải phía Bắc đẻ trấn giữ
đất nước.Hoàn cảnh lịch sử chắc chắn đă ảnh hưởng nhiều đến hào khí
trong bài thơ.
2.2 Tựa đề:
- Thuật có nghĩa là bầy tỏ , hoài là mang trong ḷng .Thuật hoài
nghĩa là bầy tỏ khát vọng , hoài băo. Đây là đề tài quen thuộc trong
thơ cổ. Điều đáng chú ư của báo thơ này ở chỗ người tỏ ḷng là một
vị tướng đang giữ trọng trách nặng nề nơi biên ải.
2.3 Hai câu đầu:
- Câu 1 khắc hoạ h́nh ảnh người tráng sĩ qua tư thế và
hành động .Hoành sóc nghĩa là cặp ngang ngọn giáo .Người trai càm
giáo đă mấy thu sẵn sàng bảo vệ non sông đất nước . Tư thế ấy lại
đặt trong không gian kỳ vĩ của giang san.Tất cả những chi tiết trên
đă dựng lên bức chân dung oai phong lẫm liệt của người trai thời
loạn.
- Câu 2 là h́nh ảnh ba quân.Ngày xưa ,quân lính thường
chia làm ba đội gọi là tiền quân , trung quan ,hậu quan.V́ thế , câu
thơ nói đến ba quân là ca ngợi sức mạnh của toàn dân tộc . Tam quân
t́ hổ khí thôn Ngưu ,câu thơ có thể hiểu theo hai cách.Khí thôn Ngưu
là khí thế nuốt được cả con trâu (chú giải của sách giáo khoa),cũng
có thể hiểu là nuốt cả con ngưu.Cả hai cách hiểu đều nói đến khí thế
mạnh mẽ của dân tộc . Đây là h́nh ảnh ước lệ quen thuộc thường gặp
trong thơ cổ nhưng đặt trong hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm ,h́nh
ảnh này lại gợi lên những cảm xúc chân thực v́ phản ảnh hào khí của
thời đại.
- Hai câu thơ là hai h́nh ảnh bổ sung vẻ đẹp cho
nhau.Thời đại hào hùng tạo nên những con người anh hùng , ngược lại
mỗi cá nhân đóng góp sức mạnh làm nên hào khí của thời đại.Câu thơ
bộc lộ niềm tự hào của tác giả về quân đội của ḿnh , về con người
và thời đại của ḿnh.Tác giả nói về chính ḿnh vừa nói tiếng nói cho
cả thế hệ.
2.4 Hai câu sau:
- Đến đây bài thơ mới bầy tỏ hoài băo của nhân vật trữ
t́nh . Đó là lập công danh nam tử, tức là công danh của đấng làm
trai theo lư tưởng phong kiến .Người xưa quan niệm ,làm trai là phải
có sự nghiệp và danh tiếng để lại muôn đời .Chí làm trai được coi là
món nợ phải trả của đấng nam nhi .Phạm Ngũ Lăo đă bầy tỏ khát vọng
được đóng góp cho đất nước , xứng đáng là kẻ làm trai .Khát vọng
thật đẹp và cao cả.
- Nhưng thật bất ngờ , câu kết bài thơ lại là nỗi thẹn:
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu
(Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu)
Vũ Hầu là Gia Cát Lượng , quân sư nổi tiếng đă giúp Lưu Bị khôi
phục nhà Hán.Phạm Ngũ Lăo thẹn v́ thấy ḿnh tài giỏi như Vũ Hầu để
lập công giúp nước . Đây là nỗi thẹn cao cả , cái thẹn làm nên nhân
cách .V́ sao? Phạm Ngũ Lăo là người có công lớn trong sự nghiệp bảo
vệ đất nước , đặc biệt trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên –
Mông.Vậy mà ông vẫn c̣n cảm thấy ḿnh vương nợ với đời , c̣n phải
thẹn lhi nghe thuyết Vũ Hầu . Điều đó nói nên khát vọng muốn đóng
góp nhiều hơn cho đất nước.
- Nếu hai câu đầu của bài thơ khắc hoạ chân dung người
trai Đại Việt với vẻ đẹp oai phong bao năm bền bỉ bảo vệ đất nước
th́ hai cau sau bộc lộ chí lớn và cái tâm cao cả của người tráng sĩ.
III. Kết luận:
- Bài thơ súc tích , ít lời nhưng đă nói nên lí tưởng nhân sinh
của kẻ làm trai: lập công danh không phải chỉ để vinh thân v́ ph́
gia,mà v́ đan tộc ;khi đă có công danh , c̣n phải phấn đấu vươn lên
không ngừng.
- Bài thơ súc tích , lời ít , chi tiết có sức gợi , tiêu biểu quy
luật kết tinh nghệ thuật của văn học trung đại.
Nhân tiện nói về Thơ, sang chuyện
Ông lăo bán than
Thơ là bí mật của những con chữ và h́nh
ảnh . “Gánh kiền khôn” trong bài thơ Bán Than của Trần Khánh Dư là
cả một hoài bảo chí hướng vĩ đại. là một vũ trụ sao bay đầy tính
siêu h́nh của Kinh Dịch .
Một
gánh kiền khôn quẩy tếch ngàn
Hỏi
chi bán đó? Gửi rằng: than
Ông
lăo bán than
Thuyền vua Trần Nhân Tông
theo ḍng sông Đuống đến B́nh Than để về hội quân bàn kế chống giặc
Nguyên lại sang xâm lược (1282). Nh́n ra phía trước, vua thấy một
ông lăo ăn mặc tiều tụy, khoác áo quen quen, liền hỏi tả hữu:
- Có phải Nhân Huệ Vương đấy
không?
Mọi người nh́n theo rồi đồng thanh:
- Dạ, chính phải.
- Hăy mời Vương đến gặp ta.
Đúng đó là Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư. Ông phạm lỗi, bị cách chức
thành dân thường, về làm nghề đốt than. Lính nhà vua rượt thuyền
theo kịp ông để mời ông dừng lại, ông lắc đầu:
- Tôi chỉ là lăo bán than quê mùa, có ǵ mà hỏi.
Vừa lúc thuyền của Nhân Tông đến cạnh. Nhà vua dịu dàng nói:
- Thôi đừng giấu ta nữa. Một thời gian qua đă khiến cho kẻ nam nhi
khốn khó thế này ư? Thôi trở lại mà lập công giết giặc.
Trần Khánh Dư đổi ngay thái độ:
- Đánh giặc th́ tôi không từ chối. Đốt than hàng ngày để kiếm ăn,
nhưng cũng là nung nấu chí lớn đấy thôi.
Trần Khánh Dư được trở lại làm quan. Ông giỏi về thủy chiến nên được
giao luyện tập và phụ trách thủy quân ở mặt Hải Đông. ít lâu sau,
ông đánh thắng đoàn thuyền của tướng giặc Trương Hổ.
Một gánh kiền khôn quẩy tếch ngàn
Hỏi chi bán đó? Gửi rằng: than
ít nhiều miễn được đồng tiền tốt
Hơn thiệt nài bao gốc củi tàn
Ơ? với lửa hương cho vẹn kiếp
Thử xem sắt đá có bền gan
Nghĩ ḿnh lem luốc toan nghề khác
Nhưng lệ trời kia lắm kẻ hàn (1)
Trần
Khánh Dư, ngày đi bán than, đêm mài gươm dưới trăng, chờ thời.
(1) Xin phép ghi thêm phụ chú
này như một giả thuyết thời Hậu Lê:
Câu chuyện tướng quân Trần Khánh Dư đi bán than mà vẫn
nung nấu căm thù đă trở thành câu chuyện đẹp trong lịch sử. Người
đời sau đă chép vào hành trang này của ông một bài thơ, đó là bài
Bán than của một người đời Lê (sống sau ông Trần đến năm trăm năm).
Bài thơ không phải của Trần Khánh Dư, nhưng đă thể hiện được tâm sự
anh hùng mà ông ôm ấp:
Nghe 'nhạc
hùng ca lời hay ư đẹp
của HQ-4' trước khi xung trận
Biệt Hải
Nguyễn Châu viết:
...
Ngày
18-1-74 lúc xế trưa, toán Biệt Hải gồm 24 người, có cả
Đại Úy (sau thăng Thiếu Tá) Chỉ Huy Trưởng Biệt Hải đi
theo, tất cả súng đạn đầy đủ nhận lệnh xuống 3 chiếc hobo tư HQ-4
thẳng hướng chạy vào đổ bộ lên đảo Cam Tuyền (Robert). Sau khi đi
lục soát một ṿng không thấy có quân Trung Cộng trú đóng, toán Biệt
Hải đă khám phá và tịch thu được một lá cờ của Trung cộng hơi cũ,
cùng một tấm bảng chủ quyền viết bằng chữ Hán, nét mực c̣n mới cắm
trên đảo trước khi toán Biệt Hải đổ bộ vào. Ngoài ra, không c̣n thấy
dấu vết ǵ khác, ngoại trừ những cây cối lưa thưa mọc cao không quá
đầu người và một số cỏ gai nhọn chết khô lâu ngày, được gió biển
cuốn tṛn nằm lăn lóc trên mặt đất san hô và vô số phân chim! Tất cả
những chi tiết trên đảo đă được vị Chỉ Huy Trưởng Biệt Hải thông báo
ra cho Hạm Trưởng ngoài tầu biết. Sau khi toán Biệt Hải đi ra và lên
hết trên tầu rồi th́ một số anh em Hải Quân lại được lệnh đổ bộ vào
để canh giữ đảo Cam Tuyền. Chiếc HQ-4 được lệnh tiếp tục chạy sang
hải phận của đảo Quang Ḥa (Duncan). Suốt đêm đó, trên tầu đă cho mở
nhiều bản nhạc hùng ca, toàn lời hay ư đẹp như để nhắc nhở bổn phận
của người lính Hải Quân/QLVNCH phải hết sức giữ ǵn lănh hải và hải
đảo Hoàng Sa do tiền nhân để lại, dù có phải hy sinh tánh mạng đă
làm nức ḷng người nghe, trong đó có toán Biệt Hải chúng tôi.
(Đặc San Gia Đ́nh Biệt Hải,
2007.)
Biệt
|